Họ Trịnh Mất Nghiệp Chúa
Nhà Hậu Lê Mất Ngôi
1.
Chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ. Từ khi
quân chúa Trịnh lấy được
đất Thanh Hóa rồi, Trịnh Sâm đắc chí, càng thêm kiêu hãnh, lại có ý muốn
cướp ngôi nhà Lê, bèn sai quan Thị
Lang là Vũ Trần Thiệu sang nhà Thanh
dâng biểu nói rằng con cháu họ Lê không có ai đáng làm vua nữa, và lại
sai quan nội giám đi với Vũ Trần Thiệu đem tiền cũa sang đút lót mà xin phong
làm vua. Nhưng sang đến Động Đình Hồ,
thì Vũ Trần Thiệu đem tờ biểu đốt
đi, rồi uống thuốc độc mà chết, bởi
vậy việc cầu phong lại bỏ, không
nói đến.
Sau Trịnh Sâm say đắm nàng Đặng Thị Huệ, bỏ
con trưởng là Trịnh Khải
mà lập người con của Đặng Thị là Trịnh Cán làm thế tử. Từ
đó người thì
theo Đặng Thị, người thì phò Trịnh Khải, trong phủ chúa chia ra bè đảng.
Tháng chín năm Nhâm Dần (1782) Trịnh Sâm mất để di chiếu lập Trịnh
Cán làm chúa và Huy Quận Công Hoàng Đình
Bảo làm phụ chính. Trịnh
Cán còn ít tuổi mà lại lắm bệnh, không mấy người chịu phục, bởi vậy cho
nên thành sự biến loạn.
2.
Kiêu Binh. Nguyên từ khi họ Trịnh giúp nhà Lê Trung Hưng về
sau, đất
Kinh Kỳ chỉ dùng lính Thanh, lính Nghệ gọi
là ưu binh để làm quan túc vệ.
Những lính ấy thường hay cậy công làm nhiều điều
trái phép. Năm Giáp Dần (1674) đời Trịnh Tạc, lính tam phủ tức
là lính Thanh, lính Nghệ đã giết
quan Tham Tụng Nguyễn Quốc Trinh và phá nhà Phạm Công Trứ. Năm Tân Dậu (1741) quân ưu binh lại phá nhà và
chực giết quan Tham Tụng Nguyễn
Quý Cảnh. Những lúc quân ưu binh làm loạn
như vậy, tuy nhà chúa có
bắt những đứa thủ xướng làm tội nhưng
chúng đã quen thói, về sau hễ hơi
có điều gì bất bình, thì lại nổi lên làm loạn.
Đến
năm Nhâm Dần (1782) Trịnh Sâm mất, Đặng Thị và Hoàng Đình Bảo
lập Trịnh Cán lên làm chúa. Con trưởng
Trịnh Sâm là Trịnh Khải mưu với
quân tam phủ để tranh ngôi chúa. Bấy giờ
có tên biện lại thuộc đội Tiệp bảo
tên là Nguyễn Bằng, người Nghệ An, đứng lên làm đầu, vào phủ chúa đánh
ba hồi trống làm hiệu, quân ưu binh kéo đến vây phủ, vào giết Hoàng Đình
Bảo, bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa. Trịnh Khải phong quan tước cho Nguyễn Bằng và
trọng thưởng cho quân
tam phủ. Từ đó quân ấy một ngày một
kiêu, cứ đi cướp phá các nhà, không
ai kiềm chế được. Năm giáp thìn (1784)
quân tam phủ lại phá nhà quan
tham tụng Nguyễn Ly, nhà Dương Khuông và giết Nguyễn Triêm ở trước
cửa phủ chúa. Khi bấy giờ Nguyễn Ly chạy
thoát được lên Sơn Tây cùng
với em là Nguyễn Điều bàn định rước Trịnh Khải ra ngoài, rồi gọi binh các
trấn về trừ kiêu binh. Nhưng sự lộ ra, quân kiêu binh vào canh giữ phủ chúa,
Trịnh Khải không ra được. Quân ấy
lại chia nhau ra giữ các cửa ô.
Quân
các trấn cũng sợ chúa bị hại đều phải
rút về. Từ đó quân kiêu binh kéo
nhau hàng trăm hàng nghìn đi cướp phá các làng.
Hễ có đứa nào đi lẻ loi
thì dân làng lại bắt giết đi, thành ra quân với dân xem nhau như cừu địch, mà
các văn thần võ tướng cũng bó tay mà chịu không làm sao được. Sau có quan
tham tụng là Bùi Huy Bích dỗ dành mãi mới dần dần hơi yên. Lúc bấy giờ ở trong đang có kiêu binh làm loạn, ở ngoài Tây Sơn nhân
dịp đem quân vào đánh phá, bởi thế cho nên cơ nghiệp họ Trịnh đổ nát
vậy.
3. Tây Sơn Lấy Thuận
Hóa. Nguyên khi trước Hoàng Đình Bảo trấn thủ đất Nghệ An, có nhiều
thủ hạ giỏi, mà trong bọn ấy có một người ở huyện Chân Lộc, thuộc Nghệ
An, tên là Nguyễn Hữu Chỉnh, đỗ hương cống từ lúc 16 tuổi, tục gọi là cống
Chỉnh, tính hào hoa, lắm cơ trí, nhiều can đảm, mà lại có tài biện bác. Trước theo Hoàng Ngũ Phúc, thường đi đánh giặc
bể, giặc sợ lắm, gọi là chim dữ; sau khi Hoàng Ngũ Phúc mất
rồi, Nguyễn Hữu Chỉnh về theo Hoàng Đình Bảo.
Đến khi kiêu binh đã giết
Hoàng Đình Bảo rồi, có người đem tin Nguyễn Hữu Chỉnh biết, Hữu Chỉnh vào
bàn với quan trấn thủ Nghệ An là Võ Tá Giao để tự lập ở xứ Nghệ, nhưng mà Võ Tá Giao sợ
không dám làm, Hữu Chỉnh bèn bỏ vào với vua Tây Sơn là
Nguyễn Nhạc.
Nguyên khi trước Nguyễn Hữu Chỉnh theo Hoàng
Ngũ Phúc vào đánh Quảng Nam thường vẫn đi lại quen Nguyễn Nhạc, cho nên Nguyễn Nhạc tin dùng, đãi làm thượng
tân. Từ đó Nguyễn Hữu Chỉnh bày mưu định kế xin vua Tây Sơn ra đánh
Thuận Hóa và đất Bắc Hà. Vả, từ khi Hoàng Ngũ Phúc mất rồi, Trịnh Sâm
sai Bùi Thế Đạt vào trấn thủ đất Thuận Hóa, sau
lại sai Phạm Ngô Cầu vào thay Bùi Thế Đạt.
Phạm Ngô Cầu là người nhu
nhược vô mưu, mà lại có tính tham lam, chỉ lo việc làm giàu, chứ không
nghĩ gì đến việc binh. Quan phó đốc thị
là Nguyễn Lệnh Tân đã viết thư về bày tỏ mọi lẽ và xin Trịnh Sâm cho tướng
khác vào thay Phạm Ngô Cầu. Trịnh Sâm không nghe, lại đòi Nguyễn Lệnh Tân
về. Vua Tây Sơn biết đất Thuận Hoá không phòng bị, bèn sai em là Nguyễn Huệ làm tiết chế, rể
là Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc,
đem quân thủy bộ ra đánh Thuận Hóa. Một hôm Phạm Ngô Cầu thấy một người khách
buôn nói thuật số, đến bảo Ngô Cầu rằng:
"Hậu vận tướng công phúc lộc nhiều lắm, nhưng năm nay có hạn nhỏ có lẽ phải
ốm đau, nên lập đàn làm chay mới được yên lành". Phạm Ngô Cầu nghe lời ấy lập đàn cầu khấn bảy
đêm ngày, bắt quân sĩ phải phục dịch không được
nghỉ ngơi chút nào. Chợt nghe tin quân
Tây Sơn đã lấy được đồn Hải Vân,
tướng giữ đồn là Hoàng Nghĩa Hồ đã tử trận, lại thấy báo rằng thủy quân
của Tây Sơn đã vào cửa bể, thủy bộ hai mặt đều kéo đến đánh. Ngô Cầu hốt hoảng, từ ở đàn chạy về dinh, gọi
binh tướng để chống giữ, nhưng quân
lính đều mỏi mệt cả, không ai có lòng muốn đánh. Phạm Ngô Cầu lại có tính đa nghi. Nguyễn Hữu Chỉnh bèn làm một cái thư đề ngoài gửi cho phó
tướng là Hoàng Đình Thể, rủ về hàng Tây Sơn, rồi giả tảng sai người đưa nhầm sang cho Ngô Cầu. Ngô Cầu bắt được thư ấy nghi cho Hoàng Đình Thể nhị tâm. Đến khi quân Tây Sơn đến đánh, Hoàng Đình Thể đem quân bản
bộ ra trận đối địch bắn hết thuốc đạn.
Ngô Cầu đóng cửa thành lại không
ra tiếp ứng. Hoàng Đình Thể cùng hai con
và tỳ tướng là Vũ Tá Kiên đều tử
trận cả. Khi quân Tây Sơn kéo đến đánh thành, Phạm Ngô
Cầu kéo cờ trắng mở cửa thành ra hàng. Quân họ Trịnh giữ ở các đồn đều tan vỡ bỏ chạy.
Trong mấy ngày mà đất Thuận
hóa ra đến Linh Giang đều thuộc về Tây Sơn cả. Bấy giờ là tháng năm năm bính ngọ (1786) đời Cảnh Hưng năm thứ 47.
4. Tây Sơn Dứt Họ Trịnh. Nguyễn Huệ
lấy được đất Thuận Hóa rồi, sai người giải Phạm Ngô
Cầu về Qui Nhơn định tội phải chém, đoạn rồi Nguyễn Huệ hội các tướng lại bàn sai người ra sửa sang đồn
Đồng Hới, và định giữ địa giới cũ ở sông
La Hà. Nguyễn Hữu Chỉnh nói rằng:
"Ông phụng mệnh ra đánh một trận mà
bình được đất Thuận Hóa, uy kinh cả chốn Bắc hà. Phàm cái phép dùng binh, một là thời hai là
thế ba là cơ, có ba điều đó đánh đâu cũng được. Bây giờ ở đất Bắc Hà tướng thì lười, quân thì
kiêu, triều đình không có kỷ cương
gì cả, nếu ông nhân lấy cái uy thanh này, đem binh ra đánh thì làm gì mà
không được. Ông không nên bỏ mất cái cơ,
cái thời và cái thế ấy". Nguyễn Huệ nói rằng: "Ở Bắc Hà có nhiều nhân tài, không nên coi làm thường". Hữu Chỉnh đáp lại rằng: "Nhân tài Bắc Hà
chỉ có một mình Chỉnh, nay Chỉnh
đã bỏ đi, thì nước không có ai nữa, xin ông đừng có ngại gì!" Nguyễn Huệ cười mà nói rằng: " Ấy! người
khác thì không ngại, chỉ ngại có ông đó
thôi!" Hữu Chỉnh thất sắt đi rồi
nói rằng: " Tôi tự biết tài hèn, nhưng mà tôi
nói thế là có ý tỏ cho ông biết ngoài Bắc không có nhân tài đó thôi". Nguyễn Huệu lấy lời nói ngọt để yên lòng Hữu
Chỉnh và bảo rằng: " Nhà Lê làm
vua đã mấy trăm năm nay, bây giờ cướp lấy,
chưa chắc lòng người đã theo
mình." Hữu Chỉnh nói: "Nay Bắc Hà có vua lại có chúa, ấy là một sự cổ kim đại
biến. Họ Trịnh tiếng rằng phù Lê, thực
là hiếp chế, cả nước không ai phục. Vả xưa
nay không ai làm gì để giúp nhà Lê, là chỉ sợ cái thế mạnh đó mà
thôi, nay ông mà, phù Lê diệt Trịnh thì thiên hạ ai
chẳng theo ông." Nguyễn Huệ nói: "Ông nói phải lắm, nhưng
ta chỉ phụng mệnh đi đánh đất Thuận Hóa
mà thôi, chứ không phụng mệnh đi đánh Bắc Hà, sợ rồi can tội kiểu mệnh
thì làm thế nào ?" Hữu Chỉnh nói: "Kiểu mệnh là tội nhỏ, việc ông làm là
công to. Vả làm tướng ở ngoài có điều
không cần phải theo mệnh vua, ông lại
không biết hay sao?" Nguyễn Huệ bèn sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy
binh đi tiên phong vào cửa Đại An đánh lấy kho
lương ở bên sông Vị Hoàng. Nguyễn Huệ
tự đem binh đi sau, ước với Hữu
Chỉnh đến sông Vị Hoàng đốt lửa lên làm hiệu. Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân đi qua Nghệ An,
Thanh Hóa, quan trấn thủ là Bùi Thế Toại và Tạ
Danh Thùy không ai dám ra cự địch; khi ra đến Vị Hoàng, quan coi đồn ở đấy bỏ
chạy. Hữu Chỉnh lấy được hơn trăm vạn hộc lương, rồi đốt lửa làm hiệu,
quân Nguyễn Huệ kéo đến đóng giữ ở đấy. Trước kia thành Phú Xuân đã vỡ rồi, tin báo
đến Thăng Long, các quan bàn rằng: xứ ấy vẫn
không là đất của triều đình, bây giờ
mất cũng không hại gì. Vì thế, chỉ sai Trịnh Tự Quyền đem 27 cơ vào
giữ đất Nghệ An. Trịnh Tự Quyền thu xếp hơn 10 ngày chưa xong,
đến khi đi được độ 30 dặm thì đã có tin báo Tây
Sơn đến đóng ở sông Vị Hoàng rồi. Tự Quyền
bèn đem quân xuống giữ ở mặt Kim Động.
Quan trấn thủ Sơn Nam là Bùi Thế Dận đem bộ binh xuống đóng ở
xã Phù Sa, thuộc huyện Đông An. Đinh
Tích Nhưỡng đem thủy quân ra giữ
cửa Luộc Bấy giờ gió Đông Nam thổi to, đến đêm Nguyễn Huệ sai lấy tượng
gỗ để lên trên mấy chiếc thuyền rồi đánh trống kéo cờ thả thuyền cho
trôi đi. Đinh Tích Nhưỡng trông thấy tưởng
là
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét