Thứ Năm, 14 tháng 4, 2011

Nhà Trần (1226 - 1400)

Tiếp Theo

I. Trần Anh Tôn (1293-1314)


Thái tử Trần Thuyên lên ngôi, tức là vua Trần Anh Tôn.
Trần Anh Tôn lúc đầu hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có khi bị đồ vô lại phạm đến.
 
Một hôm uống rượu say đến nỗi Trần Nhân Tôn Thượng Hoàng ở Thiên Trường về kinh, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng Hoàng giận lắm, truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hội nghị. Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về kinh, sợ hãi quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên là Đoàn Nhữ Hài, mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Thượng Hoàng xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho Trần Anh Tôn. Về đến kinh sư, Trần Anh Tôn cho Đoàn Nhữ Hài làm Ngự sử Trung tán, và từ đấy không uống rượu nữa.
 
Từ xưa đến nay vua An Nam vẫn có tục lấy chàm vẽ rồng vào đùi, nhưng Trần Anh Tôn không muốn theo tục này. Một hôm Thượng Hoàng bảo Trần Anh Tôn rằng: " Dòng dõi nhà mình vẫn vẽ mình để nhớ gốc ngày xưa, nay nhà vua phải theo tục ấy mới được". Trần Anh Tôn tuy vâng mệnh nhưng lừa khi Thượng Hoàng bận việc khác, lẩn đi không cho vẽ. Từ đấy, vua An Nam mới không vẽ mình nữa.

Tính vua
Trần Anh Tôn hay vẽ: thường có làm một tập Thủy Vân Tùy Bút, nhưng đến lúc sắp mất đem đốt đi không cho để lại. Sử có chép rằng khi Trần Anh Tôn đau nặng, Hoàng hậu cho đi gọi thầy tăng về để làm lễ xem sự sinh tử,  Anh Tôn gạt đi mà bảo rằng: " Thầy tăng đã chết đâu mà biết được sự chết".  Xem thế thì biết Trần Anh Tôn là một ông vua hiếu thảo và lại thông minh, cho nên việc triều chính thời bấy giờ có cương kỷ lắm.  Trong triều lại có những người tài giỏi hết lòng giúp việc nước. Văn như bọn ông Trương Hán Siêu, võ như ông Phạm Ngũ Lão đều là người có tài trí cả.

Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hải Dương, trước theo Trần Hưng Đạo Vương đánh giặc Nguyên, lập được công to.  Triều đình trọng dụng cho làm
Đại tướng. Phạm Ngũ Lão trị quân có kỷ luật, đãi tướng hiệu như người nhà, ở với sĩ tốt cùng chịu cam khổ, cho nên vẫn gọi quân của ông ấy là phụ tử chi binh, đánh đâu được đấy, thành một người danh tướng nước Nam ta.

Ông Phạm Ngũ Lão đã giỏi nghề võ, lại hay nghề văn, thường ngâm bài thơ thuật hoài sau này:

Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

 Tạm dịch:

Ngọn giáo non sông trải mấy thâu
Ba quân hùng hổ khí thôn ngưu
Công danh nếu để còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu

 
Thời bấy giờ vua hiền, tôi trung, phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh, chính trị không có điều gì hồ đồ. Việc học hành mở mang rộng rãi, cho nên những người có tài văn học như bọn ông Mạc Đĩnh Chi, ông Nguyễn Trung Ngạn đều được thi đỗ, ra làm quan giúp việc triều đình. Thật là một thời rất thịnh về đời nhà Trần vậy.

 Đánh Ai Lao. Từ khi quân nhà Nguyên thua chạy về Tàu rồi, phía bắc được yên, nhưng ở phía tây nam có quân Ai Lao thường hay sang quấy nhiễu ở mạn Thanh Hóa, Nghệ An. Trước vua Nhân Tông đã thân chinh đi đánh giặc lại sang cướp phá. Sau Anh Tông sai tướng quân là Phạm Ngũ Lão đi đánh ba bốn phen nữa. Đánh trận nào quân Lào cũng bị giết hại rất nhiều, cho nên từ đó phía Thanh, Nghệ, mới được yên.

Giao Thiệp Với Chiêm Thành. Nước Chiêm Thành đối với An Nam từ ngày nhà Trần lên làm vua, hai nước không có điều gì lôi thôi.  Đến khi Trần Nhân Tông đi đánh Lào trở về, thì bỏ đi tu, trước ở chùa Võ Lâm (làng Võ Lâm, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình), sau về ở An Tử Sơn (huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên).  Năm Tân sửu (1301) Thượng Hoàng đi sang Chiêm Thành sang phong cảnh, có ước gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Được ít lâu Chế Mân cho người đưa vàng bạc và các sản vật sang cống và xin cưới. Triều thần có nhiều người không thuận.  Chế Mân lại xin dâng Châu Ô và Châu Rí để làm lễ cưới, bấy giờ Trần Anh Tôn mới quyết ý thuận gả. Đến tháng sáu năm Bính Ngọ (1306) cho công chúa về Chiêm Thành.

Sang năm sau (1307) vua Anh Tôn thu nhận hai Châu Ô và Châu Rí, đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, rồi sai quan là Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan cai trị.

Huyền Trân Công Chúa lấy Chế Mân chưa được một năm thì Chế Mân mất, mà theo tục Chiêm Thành, hễ khi vua đã chết, thì các hậu phải hỏa thiêu chết theo.  Anh Tông được tin ấy, sai Trần Khắc Chung, giả mượn tiếng vào thăm để tìm kế đưa công chúa về.

Từ khi Chế Mân mất rồi, Chế Chí lên làm vua Chiêm Thành. Nhưng Chế Chí hay phản trắc, không giữ những điều giao ước trước, cho nên năm Tân hợi (1311), Anh Tôn cùng với Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư phân binh làm ba đạo sang đánh Chiêm Thành, bắt được Chế Chí đem về An Nam và phong cho người em là Chế Đà A Bà làm vua Chiêm Thành.

Chế Chí về An Nam được phong là Hiệu Thuận Vương, nhưng chẳng được bao lâu thì mất ở huyện Gia Lâm. Vua sai đưa hỏa táng. Từ đó về sau nước Chiêm và nước Nam thành ra có điều thù oán mãi.

Năm mậu thân (1308) Nhân Tông Thượng Hoàng mất ở chùa Yên Tử Sơn. Năm giáp dần (1314)
Trần Anh Tôn nhường ngôi cho Thái tử Mạnh, rồi về làm Thái Thượng Hoàng ở phủ Thiên Trường đến năm canh thân (1320) thì mất.  Trần Anh Tôn trị vì được 21 năm, nhường ngôi được 6 năm, thọ 54 tuổi.

II. Trần Minh Tôn (1314-1329)

 
Năm Giáp Dần (1314)
Thái Tử Mạnh lên ngôi làm vua, tức là vua  Trần Minh Tôn.  Thời bấy giờ làm quan tại triều có Đoàn Nhữ Hài, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An, v.v... đều là những người có tài cán trí lực cả.

Trong nước được yên trị; giao hiếu với nước Tàu thì tuy rằng có lôi thôi về đường phân địa giới, nhưng đại khái vẫn được hòa hảo. Duy chỉ có nước Chiêm Thành tự khi Chế Chí chết rồi, thì người Chiêm cứ hay sang quấy nhiễu ở phía nam, cho nên phải dùng đến binh lực . Năm Mậu Ngọ (1318), Minh Tôn sai Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân và tướng quân Phạm Ngũ Lão đem binh đi đánh, vua Chiêm là Chế Năng phải bỏ thành mà chạy.


Còn những việc chính trị trong nước, thì năm ất mão (1315), lập lệ cấm người trong họ không được đi thưa kiện nhau; năm Bính Thìn (1316) duyệt định văn võ quan cấp; năm Quý Hợi (1323) mở khoa thi Thái Học Sinh; năm ấy lại cấm quân sĩ không được vẽ mình như trước.  Nước ta bỏ thói vẽ mình từ đấy.


Minh Tôn vốn là ông vua có lòng nhân hậu, hay thương yêu nhân dân, nhưng chỉ vì nghe nịnh thần cho nên giết oan Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân, là người làm quan có công với nước.
Trần Quốc Chân là thân sinh ra hoàng hậu và lại có công đi đánh Chiêm Thành thắng trận mấy lần. Nhưng vì Hoàng Hậu chưa có hoàng tử, triều thần phân ra làm 2 đảng, một đảng thì có Văn Hiến Hầu và Trần Khắc Chung, xin lập hoàng tử Vượng là con bà thứ, làm thái tử. Một đảng thì có Trần Quốc Chân xin chờ cho hoàng hậu có con trai rồi sẽ lập thái tử.


Sau Văn Hiến Hầu cho tên Trần Nhạc là đầy tớ của Trần Quốc Chân một trăm lạng vàng xúi nó vu cáo cho Quốc Chân làm mưu phản. Minh Tôn bắt Quốc Chân đem giam ở chùa Tư Phúc.
Trần Khắc Chung xin vua trừ Quốc Chân đi, lấy lẽ rằng bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó. Minh Tôn nghe lời ấy, cấm không cho Quốc Chân ăn uống gì cả, đến đổi khát nước quá, Hoàng Hậu phải lấy áo nhúng xuống nước rồi mặc vào vắt ra cho uống. Uống xong thì chết. Sau có người vợ lẽ tên Trần Nhạc ghen nhau với vợ cả, đi tố cáo ra sự Trần Nhạc lấy vàng và sự vu cáo cho Trần Quốc Chân. Bấy giờ mới rõ cái tình oan của một người trung thần.  


Minh Tôn làm vua đến năm ất tị (1329), thì nhường ngôi cho thái tử Vượng, rồi về làm Thái Thượng Hoàng.

III. Trần Hiến Tôn (1329-1341)

 
Thái Tử Vượng mới có 10 tuổi, lên làm vua tức là vua Hiến Tôn.  
Trần Hiến Tông chỉ làm vua lấy vì mà thôi, quyền chính ở cả tay Trần Minh Tôn Thượng Hoàng, cho nên tuy ngài có làm vua được non 13 năm, nhưng không được tự chủ việc gì.

1. Giặc Ngưu Hống.
Trần Minh Tôn Thượng Hoàng vừa nhường ngôi xong, thì ở mạn Đà Giang có Mường Ngưu Hống làm loạn. Thượng Hoàng phải thân chinh đi đánh. Người Ngưu Hống ở trại Chiêm Chiêu đưa thư đến giả xin hàng. Nhưng khi đạo quân ở Thanh Hóa đi đến nơi, thì bị người ở trại ấy đổ ra đánh, phải thua chạy. Thượng hoàng đem đại binh tiến lên, thanh thế lừng lẫy, quân Ngưu Hống bỏ chạy cả vào rừng. Quân giặc tuy thua nhưng không trừ hết được, mãi đến năm Dinh sữu (1377) tướng nhà Trần là Hưng Hiếu Vương chém được thủ đảng Ngưu Hống ở trại Trịnh Kỳ, thì giặc ấy mới yên.

2. Giặc Ai Lao. Trong khi giặc Ngưu Hống còn đang quấy nhiễu, giặc Ai Lao lại sang đánh phá. Năm giáp tuất (1384) Minh Tôn Thượng Hoàng lại phải thân chinh đi đánh. Sai ông Nguyễn Trung Ngạn vào Thanh Hóa sung chức Phát Vận Sứ để vận lương đi trước, Thượng Hoàng đem đại quân vào sau.  Khi đại quân vào đến Kiềm Châu (thuộc huyện Tương Dương, Nghệ An), quân Ai Lao nghe tiếng đều bỏ chạy cả.  Thượng Hoàng bèn sai ông Nguyễn Trung Ngạn làm bài bia khắc trên núi để ghi công. Bài bia ấy chữ to bằng bàn tay, khắc vào đá sâu một tấc, đến nay vẫn còn.  Văn bài bia ấy dịch ra chữ nôm như sau này:


"
Chương nghiêu Văn triết Thái thượng hoàng là vua thứ sáu đời nhà Trần, nước Hoàng Việt chịu mệnh trời nhất thống cõi trung hạ, trong đất ngoài bể đâu cũng thần phục. Nước Ai Lao nhỏ mọn kia dám ngạnh vương hóa; cuối mùa thu năm ất hợi vua thân đem sáu quân đi tuần cõi tây, Thế tử nước Chiêm Thành, nước Chân Lạp, nước Tiêm La và tù trưởng các dạo mán là Quì, Cầm, Xa, Lạc, tù trưởng rợ Bồ Man mới phụ và các bộ Mán Thanh xa đều mang phương vật tranh nhau đến đón rước. Chỉ có tên nghịch Bổng cứ giữ mê tối, sợ phải tội chưa lại chầu ngay. Cuối mùa đông vua đóng quân ở cánh đồng Cự, thuộc châu Mật, sai các tướng và quân rợ mọi vào tận nước, nghịch Bổng theo gió chạy trốn. Vua mới xuống chiếu đem quân về. Lúc bấy giờ là ngày tháng chạp nhuận năm ất hợi, niên hiệu Khai Hữu thứ 7, khắc vào đá".
 

Xem văn từ thì hình như việc Minh Tông Thượng Hoàng đi đánh Ai Lao thật là hống hách lắm, nhưng cứ sự thực thì quân ta bấy giờ chưa ra khỏi cõi, mà giặc Ai Lao thì chưa trừ được. Còn như việc thế tử nước Chân Lạp và nước Tiêm La, v.v.... sang chầu, thì thiết tưởng đấy là một lối làm văn của nhà làm bia nói cho trân trọng đó mà thôi, chứ chưa chắc đã hợp với sự thực.

Năm sau quân Ai Lao lại sang cướp ở ấp Nam Nhung (thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An). Minh Tôn thượng hoàng lại ngự giá đi đánh lần nữa. Ngài sai quan Kinh Lược Đại Sứ tỉnh Nghệ An là Đoàn Nhữ Hài làm Đô Đốc chư quân. Đoàn Nhữ Hài khi quân lào hèn yếu, chắc đánh là tất được. Đến khi đem quân đến ấp Nam Nhung qua sông Tiết La, chẳng may phải hôm có sương mù, bị phục binh của Lào đổ ra đánh, quan quân thua chạy cả xuống sông, chết đuối nhiều lắm. Đoàn Nhữ Hài cũng chết đuối.


Xét ra nước Ai Lao đã sang quấy nhiễu đất An Nam từ đời vua
Trần Nhân Tôn và vua Trần Anh Tôn. Quan quân đã phải đi đánh nhiều lần, nhưng lần nào đánh xong thì cũng chỉ yên được độ vài ba năm, rồi giặc lại sang đánh phá. Mà quan quân có đi đánh thì cũng đánh cho nó đừng sang ăn cướp ở đất mình nữa mà thôi, chứ không có lúc nào định chiếm giữ đất Lào cả. Có lẽ là tại đất Lào nhiều rừng lắm núi, phải sơn lam thủy chướng, đường sá xa xôi, vận tải khó nhọc, cho nên quân ta không ở được lâu. Còn người Lào thì họ thuộc đường xá, quen phong thổ, tiến thoái tùy tiện; thắng trận thì họ tiến lên đánh, bại trận thì họ rút quân đi, mình không biết đâu mà đuổi. Bởi thế cho nên quân ta vẫn đánh được giặc mà giặc vẫn còn, thành ra cứ phải đi đánh mãi.

Trần Hiến Tôn làm vua đến năm Tân Tị (1341) thì mất, trị vì được 13 năm, thọ 23 tuổi.



Tóm Tắt Bài Học Việt Sử:  
Nhà Trần (1293-1314)

1)  Vua Trần Anh Tôn tên thật là gì?
2)  Vua Trần Anh Tôn là vị vua như thế nào?
3)  Vua Trần Minh Tôn tên thật là gì?
4)  Vào thời vua Trần Minh Tôn tình hình đất nước như thế nào?
5)  Từ đời vua nào cấm quân sĩ không được vẽ mình trước?
6)  Vua Trần Hiến Tôn tên thật là gì ?  Lúc ấy nhà vua bao nhiêu tuổi?

o0o

 


 

 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét